Từ đó bài viết khẳng định, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đúng đắn, sâu sắc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Trong lịch sử nhân loại ở thể kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác - Lênin, phù hợp với thực tế Việt Nam.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - tiếp cận từ phương diện đạo đức
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là lý tưởng tốt đẹp mà loài người sẽ đạt tới
Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, trong xã hội đã từng tồn tại những lý tưởng xã hội khác nhau. Lý tưởng của giai cấp phong kiến với việc lấy quyền lực tối cao là cơ sở để tồn tại. Lý tưởng của giai cấp tư sản lấy lợi nhuận kinh tế làm thước đo giá trị. Lịch sử nhân loại cũng đã từng chứng kiến sự xuất hiện lý tưởng của những nhà XHCN không tưởng. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã đánh dấu sự phát triển nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Những tư tưởng về lý tưởng tốt đẹp, cao cả của CNXH được các nhà kinh điển đề cập sâu sắc theo quan điểm khoa học và cách mạng qua các tác phẩm của mình, đặc biệt là tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848. Đó là tư tưởng giải phóng hoàn toàn con người để đem lại hạnh phúc cho con người, không có người bóc lột người và do chính con người thực hiện.
Trong khi đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã mơ ước cho dân tộc mình và cho cả loài người một đời sống thật sự tự do, bình đẳng, bác ái. Một cuộc sống mà chính giai cấp tư sản đã nêu lên trên lá cờ của nó, nhưng cái quyền tối thiểu ấy của con người được nêu lên trong cách mạng tư sản đã nhanh chóng héo khô như những bông hoa chưa nở đã tàn. Trên các ngả đường của thế giới, Người đã không thấy tự do mà chỉ thấy nhà tù và máy chém. Người không thấy bình đẳng mà chỉ thấy đói rét và nhục nhã, thấy những phố nghèo của công nhân, qua những túp lều xiêu đổ của dân thuộc địa. Người chẳng thấy bác ái mà chỉ thấy hành hạ, chém giết, bạo tàn. Và theo Người, “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”(1). Đây là cuộc cách mạng chưa đem lại quyền lợi thật sự của quần chúng lao động bị áp bức và cũng không trả lời được con đường giải phóng dân tộc. Chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mới vạch rõ con đường đi tới của cách mạng Việt Nam.
Về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh tìm thấy nhiều câu trả lời cho cách mạng Việt Nam trong lý luận của V.I.Lênin, đặc biệt là những vấn đề dân tộc và thuộc địa, về khả năng và triển vọng của các dân tộc phương Đông. Kế thừa tư tưởng V.I.Lênin, Người khẳng định: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(2).
Chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản là một quá trình nhận thức về lý luận và thực tiễn, suy ngẫm và so sánh để rồi cuối cùng đi đến một quyết định lựa chọn dứt khoát có ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của dân tộc “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đường lối thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH là một cống hiến lý luận quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin và đã được thực tế lịch sử Việt Nam kiểm chứng và thực hiện. Độc lập dân tộc là tiền đề, để tiến lên CNXH, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy, CNXH là lý tưởng tốt đẹp mà loài người sẽ đạt tới. Vậy CNXH là gì? Dưới góc độ đạo đức, những giá trị CNXH được Hồ Chí Minh định nghĩa ở một số khía cạnh nổi bật sau:
Một là, định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu tốt đẹp và chỉ ra phương hướng, phương thức để đạt mục tiêu đó. Đây là cách định nghĩa phổ biến mà Hồ Chí Minh thường dùng và cũng là lý tưởng tốt đẹp mà Việt Nam và nhân loại hướng tới. Trong hơn 20 định nghĩa về CNXH, thì có hơn 2/3 định nghĩa thuộc nội dung này. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh hỏi: “chủ nghĩa xã hội là gì?” và Người tự trả lời: “Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”, “Là đoàn kết, vui khỏe”. Hoặc, “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”(3).
Trong dự báo mang ý nghĩa phủ định CNTB và khẳng định CNXH, Người chỉ rõ, một CNTB tàn bạo, bất công, phi nhân tính nhất định phải bị thay thế bằng CNXH - một chế độ xã hội kiểu mới mang bản chất nhân đạo, thực hiện khát vọng giải phóng, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho cộng đồng dân tộc - xã hội, quyền dân chủ, làm chủ của mỗi người được cách mạng giải phóng và đem lại những điều kiện cho sự phát triển toàn diện của từng cá nhân.
Ở đây, mục tiêu của CNXH là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Đây là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất XHCN của các lý luận CNXH và chính sách thực tiễn.
Hai là, dưới góc độ giá trị, CNXH là đỉnh cao của quá trình tiến hóa lịch sử nhân loại. Đó là hệ thống các giá trị văn hóa mang tính đặc thù (trong đó có giá trị đạo đức), vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng CNXH. Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là sự tổng hợp, quyện chặt ngay từ cấu trúc nội tại của nó, một hệ thống các giá trị văn hóa (trong đó có giá trị đạo đức) làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đó là: độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, nhân quyền, bác ái, đoàn kết, hữu nghị, phúc lợi...
Quan hệ đạo đức “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội, cho nên tất cả những quan hệ xã hội mang những giá trị cơ bản này đều bao hàm yếu tố đạo đức và là mục tiêu chủ yếu mà CNXH phải kế tục thực hiện. Khi mà tất cả các giá trị đó được hiện thực hóa trong đời sống, trong các quan hệ xã hội tốt đẹp thì loài người sẽ vươn tới lý tưởng đạo đức cao nhất của CNXH, đó là “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Ở đó, con người được phát triển toàn diện, nhân cách phong phú, năng lực con người được phát huy cao nhất. Bởi lẽ, điều cốt lõi của văn hóa là con người, là giá trị của con người - giá trị cao nhất của mọi văn hóa. Do đó, Người nhấn mạnh, phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, làm cho mọi hoạt động đều định hướng tới văn hóa vì con người. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(4).
Ba là, định nghĩa CNXH bằng cách xác định ý nghĩa đạo đức của các động lực xây dựng CNXH là của nhân dân, do nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, CNXH không phải là cái gì cao xa mà là ý thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước, tinh thần đoàn kết tương trợ, tinh thần dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần kiệm.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH là một chế độ không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có được quyền lao động. Đó là một xã hội luôn lấy cuộc sống hạnh phúc của nhân dân, sự phát triển và tiến bộ của con người, quyền và địa vị làm chủ của nhân dân làm mục đích.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu
Khi đề cập đến chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, C.Mác viết: “chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu - sự tự tha hóa ấy của con người - và do đó với tính cách là sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người... Chủ nghĩa cộng sản như vậy, với tính cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo, với tính cách là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên”(5). C.Mác xuất phát từ lòng thương dân, thương con người bị áp bức, nô dịch mà nghiên cứu, tìm đường giải phóng nhân loại, tiếp tục phát triển hơn nữa xu hướng nhân văn, nhân đạo trong lịch sử.
Khác với các vị tiền bối của mình, C.Mác không dừng lại ở lý tưởng tốt lành, tình cảm hướng thiện, mà tìm cách giải quyết các nghịch lý: lý tưởng thì tốt đẹp mà hiện thực lại xấu xa. Ông tìm ra phương thức khoa học, cách mạng để giải phóng con người. Đó là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.
C.Mác và Ph.Ăngghen lên án chế độ tư bản bởi sự bóc lột giá trị thặng dư, làm tha hóa con người, đã có những bài phân tích sâu sắc về chủ nghĩa thực dân và chính sách xâm lược thuộc địa của giai cấp tư sản các nước tư bản tiên tiến phương Tây. V.I.Lênin đã có những tác phẩm lý luận về chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, lên án chủ nghĩa đế quốc bởi sự phát triển kinh tế, chính trị đế quốc chủ nghĩa của nó. Nhưng các ông đứng ở giác độ của những người cộng sản sống ở chính quốc để nhìn và lý giải vấn đề thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã bổ sung cho lý luận của các ông bằng cách nhìn từ phía các dân tộc bị áp bức. Người kết tội chủ nghĩa đế quốc cùng chế độ thuộc địa bởi sự tàn bạo của nó. Người cho rằng, chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa hai vòi” không chỉ vì sự bóc lột kinh tế cả ở chính quốc và cả ở thuộc địa mà tội ác của nó còn ghê tởm hơn, ở chỗ làm tha hóa con người, làm mất nhân tính của cả người bị bóc lột và kẻ đi bóc lột.
Kế thừa và phát triển tư tưởng nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực Hồ Chí Minh không dừng ở sự phê phán mà cao hơn nữa là phải chiến đấu để giải phóng nhân loại đau khổ bằng chính lực lượng của họ. Ở đây, Người đã đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của con người. Thức tỉnh họ, tập hợp họ và hướng dẫn họ đứng lên giành lấy quyền sống của con người - đó mới là giá trị nhân văn đích thực.
Đúng như Môngtarông ca ngợi, “Cụ Hồ Chí Minh là chiến sĩ đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói thèm khát một cuộc sống cho ra người... Cụ dạy: cuộc chiến đấu vì nhân phẩm và tự do phải được đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác. Cụ đã bênh vực những ai yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ”(6). Đó là tinh thần nhân văn cách mạng, nhân văn chiến đấu để giải phóng nhân loại đau khổ, giải phóng con người khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc bằng chính lực lượng của họ. Đây chính là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu trong tư tưởng Hồ Chí Minh(7).
Thứ ba, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người là nét đặc trưng bao trùm nhất của CNXH hiện thực trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Là một người yêu nước ở thuộc địa trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin với những nhận thức hết sức mới mẻ. Người đã đem tư tưởng nhân văn cách mạng áp dụng vào những điều kiện đặc biệt, không có ở các nước châu Âu, chỉ có ở xã hội châu Á - “xã hội nông nghiệp” - nơi mà quần chúng chủ yếu là nông dân bị chủ nghĩa thực dân và phong kiến áp bức bóc lột, chỉ có thể tự giải phóng thật sự và hoàn toàn bằng cách đi theo con đường cách mạng vô sản. Ở đây, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc, phải đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu.
Theo Người, trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng; và cách mạng giải phóng dân tộc là mục tiêu trực tiếp trước mắt, cách mạng vô sản thế giới là mục tiêu lý tưởng. Như vậy, mục tiêu Người phấn đấu là độc lập - tự do - hạnh phúc cho mọi dân tộc, cho mọi người. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người - đó là nét đặc trưng bao trùm nhất của CNXH hiện thực trong tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Đó cũng là cơ sở của tinh thần đoàn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ, cơ sở của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính, cơ sở của độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam.
Thứ tư, chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân nhưng không hề phủ nhận cá nhân
Tư tưởng XHCN đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa... phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân”(8). Đây là một cách nhìn mới mẻ, sâu sắc, là sự sáng tạo, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh. Nói về chủ nghĩa cá nhân, Người chỉ rõ “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(9).
Người còn nhấn mạnh, trong sự nghiệp xây dựng CNXH, người cách mạng cần phải nhận rõ, “Kẻ địch gồm có ba loại. Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia”(10). Đây là một thứ bệnh gốc, bệnh mẹ “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí”.
Ở đây, Người còn phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của CNXH, nên phải đấu tranh để xóa bỏ. Nhưng lợi ích cá nhân không giống như chủ nghĩa cá nhân. Theo Người, lợi ích cá nhân có nhiều thứ (tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình). Về lợi ích cá nhân còn có lợi ích chính đáng và không chính đáng. Người cho rằng, nếu những lợi ích cá nhân mà không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu.
Cho nên, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân và mục tiêu chúng ta xây dựng xã hội mới là một xã hội trong đó, tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của tất cả mọi người, một xã hội trong đó lợi ích cá nhân được thỏa mãn hài hòa với lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Người còn chỉ rõ “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”(11). Về giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, Người chỉ rõ: “Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”(12).
Người chỉ rõ, người cán bộ, đảng viên phải trải qua một quá trình tự giác tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ, phải trải qua thực tiễn đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, đạo đức cách mạng mới được củng cố bền vững. Người nhấn mạnh, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Bằng những lời nói và việc làm, bằng giảng giải và nêu gương, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho mọi người thấy thế nào là một đạo đức cao đẹp, một cuộc sống đáng sống. Người nâng cao tâm hồn và tình cảm của nhân dân, khiến mọi người đều cảm thấy mình luôn luôn lớn lên và đầy niềm tự hào trước sự nghiệp cách mạng vĩ đại và trước tấm gương đạo đức chói ngời của Người.
2. Sự vận dụng, bổ sung, phát triển của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Dưới góc độ đạo đức, điểm lại một số thành tựu nổi bật như sau:
Thứ nhất, ngày càng nhận thức rõ CNTB xét về bản chất không thực sự vì con người mà vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người
Mặc dầu CNTB đã đóng góp to lớn cho nhân loại mà chúng ta phải kế thừa, phải tiếp thu có chọn lọc, nhưng CNTB cũng bộc lộ ra những hạn chế, những nhược điểm, thuộc tính tiêu cực cố hữu của nó. Đó là, những khủng hoảng kinh tế tài chính, khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày càng sâu sắc và không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ TBCN, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội,... Nguyên nhân của nó, theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đó là, quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng, làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội... Đây không phải là mục tiêu mà nhân loại và Việt Nam hướng tới.
Thứ hai, kiên định, kiên trì giữ vững mục tiêu XHCN, đây là mục tiêu lý tưởng, cao cả, đúng đắn của toàn Đảng, toàn dân ta
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Mục tiêu này được hình thành và trở thành nhân tố tạo nên sức mạnh thần kỳ của cả dân tộc, không chỉ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà trong xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Đó là “Khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(13). Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;... kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”(14).
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm... chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(15). Những mong ước tốt đẹp và cao cả đó chính là những giá trị đạo đức đích thực của CNXH và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Thứ ba, đã hình thành những quan niệm mới, giá trị mới về CNXH ở nước ta. Đây là những thành tựu lý luận nổi bật về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Từ phương diện đạo đức, có thể nêu một số quan niệm mới, nổi bật như sau:
Một là, từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu tốt đẹp cuối cùng của CNXH với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Hai là, sự ra đời của khái niệm quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN: “là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột, tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”(16).
Ba là, khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là khái niệm thay đổi căn bản quan niệm về CNXH, đổi mới căn bản nhận thức con đường đi lên CNXH ở nước ta. “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(17). Ở đây có những yêu cầu mang tính nguyên tắc (đạo đức, chính trị) đó là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, khuyến khích làm giàu hợp pháp, phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Tính ưu việt của CNXH thể hiện nổi bật ở chỗ, cơ sở kinh tế càng giàu có, càng có điều kiện thực hiện để nâng cao đời sống của nhân dân, để thực hiện chính sách xã hội, công bằng, văn minh đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Bốn là, sự hình thành Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, bảo đảm lợi ích của nhân dân phát huy tính tích cực và sự sáng tạo của nhân dân thông qua các định chế dân chủ, làm cho công dân Việt Nam có quyền thật sự tham gia quản lý công việc nhà nước và thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Năm là, chú trọng phát huy yếu tố văn hóa. Coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn. Phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, có lối sống lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.
Sáu là, chú trọng xây dựng Đảng về mặt đạo đức. Đảng ta chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ XHCN. “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(18).
Thứ tư, ngày càng chú trọng xây dựng xã hội XHCN hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, nhân đạo, vì con người và hạnh phúc của con người
Đó là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, có Đảng Cộng sản vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân. Một xã hội có kỷ cương, có đạo đức, có lối sống lành mạnh, bình đẳng, con người ngày càng được giải phóng không còn áp bức, bóc lột, bất công... Trong quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng thấy rõ hơn những đặc trưng của CNXH và con đường đi lên CNXH - chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Trong đó nổi lên những vấn đề chính là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh do nhân dân làm chủ; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội... xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Từ cách tiếp cận đạo đức học, chúng ta thấy ở đây có sự thống nhất giữa mục tiêu và phương thức đạt mục tiêu. Nghĩa là, mục tiêu tốt đẹp, mục tiêu thiện thì phương thức thực hiện mục tiêu cũng phải thiện. Chúng ta không thể đạt mục tiêu bằng mọi giá, không xóa nỗi đau này bằng cách tạo ra nỗi đau khác. Không xây dựng hạnh phúc của dân tộc mình bằng cách chà đạp lên hạnh phúc của dân tộc khác. Cụ thể là, về nguyên tắc làm thế nào để có sự phát triển vì con người chứ không phải đánh mất con người. Chúng ta xây dựng CNXH theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tuân theo các nguyên tắc đó. Tất nhiên, không thể giải quyết tất cả ngay trong một lúc, nhưng trong từng bước đi, phải có những bước tiến cụ thể trong việc giải quyết những vấn đề trên và đó chính là định hướng XHCN.
Thứ năm, ngày càng chú trọng vai trò của đạo đức trong việc phát huy các động lực xây dựng CNXH
Trong những năm đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn các động lực phát triển của xã hội và đã có những chủ trương, chính sách phù hợp để phát huy hệ thống các động lực đó: Một là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và ý thức cộng đồng. Hai là, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Ba là, kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và cá nhân, đặc biệt chú ý đến lợi ích thiết thân của người lao động, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm tối cao. Bốn là, kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước.
CNXH theo tư tưởng Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc chất nhân văn, vì con người, vì nhân dân và dân tộc với các giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. CNXH Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính nhân dân, tính dân tộc, giá trị nhân văn và là ngọn cờ soi đường, kim chỉ nam cho sự phát triển và tiến bộ xã hội của Việt Nam nói riêng, của nhiều nước khác trên thế giới nói chung.
PGS, TS NGUYỄN THẾ KIỆT
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TS KIỀU THỊ HỒNG NHUNG
Trường Đại học Phương Đông
______________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.296.
(2), (3), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Sđd, tr.604, 563, 247.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.246.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.167.
(6) Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, t.3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.276-279.
(7) Xem: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr.231.
(9), (10), (11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.609, 605-606, 610, 610.
(13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70.
(14), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.26-27, 128.
(15), (16), (18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21-22, 25, 56.
Tác giả: Nhân Phụng (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc